Chào mừng bạn đăng nhập diễn đàn.
Chúc bạn một ngày tốt lành.Have fun! ^_^
Chào mừng bạn đăng nhập diễn đàn.
Chúc bạn một ngày tốt lành.Have fun! ^_^
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.



 
Trang ChínhTìm kiếmLatest imagesĐăng kýĐăng Nhập
XỬ LÝ NHỮNG CHẤN THƯƠNG THÔNG THƯỜNG TRONG THỂ THAO TL0
=====================================================


THÔNG BÁO: Chuyển địa điểm tập tại Thủy Lợi
sang Nhân Chính


Share | 
 

 XỬ LÝ NHỮNG CHẤN THƯƠNG THÔNG THƯỜNG TRONG THỂ THAO

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Tác giảThông điệp
HuyendaiKarate
Huấn luyện viên
Huấn luyện viên
HuyendaiKarate

Số bài gửi : 714
Tài sản : 510618
Số lần được thanks : 53
Join date : 14/05/2010
Đến từ-Lớp Đến từ-Lớp : CLB Karatedo Uy Son

XỬ LÝ NHỮNG CHẤN THƯƠNG THÔNG THƯỜNG TRONG THỂ THAO _
Bài gửiTiêu đề: XỬ LÝ NHỮNG CHẤN THƯƠNG THÔNG THƯỜNG TRONG THỂ THAO   XỬ LÝ NHỮNG CHẤN THƯƠNG THÔNG THƯỜNG TRONG THỂ THAO I_icon_minitimeFri Jun 04, 2010 7:14 am

Xử lý những chấn thương thông thường trong thể thao


XỬ LÝ NHỮNG CHẤN THƯƠNG THÔNG THƯỜNG TRONG THỂ THAO Karate1_653598404
Vận động quá mức hay va chạm mạnh có thể gây chấn thương phần mềm.
Khi bị chấn thương phần mềm, bệnh nhân không được chườm nóng hay kéo, nắn trong 2 ngày đầu. Chườm nóng làm máu chảy nhiều hơn; kéo nắn làm tổn thương bị nặng thêm, thậm chí có thể gây đứt cơ hoàn toàn và bầm dập mô xung quanh. Kết quả là tổn thương viêm tăng lên, vết thương lâu lành và sẹo bị xấu.
Trong sinh hoạt thể dục thể thao, có thể xảy ra các chấn thương ở cơ, gân và dây chằng. Do mức độ tổn thương nhẹ nên bệnh nhân có thể tự chăm sóc vết thương tại nhà.
Bác sĩ Vương Huy Đồng, Trung tâm Chấn thương Chỉnh hình TP HCM, cho biết, chấn thương cơ bắp có thể chia làm 3 mức độ:
1. Giãn cơ: Là tổn thương cơ dạng nhẹ do dây chằng, gân, cơ bị kéo giãn. Số lượng bó sợi cơ bị đứt là dưới 25%. Ngay lúc bị chấn thương, người bệnh thấy đau nhói ở vùng gân cơ. Sau ít phút, cảm giác đau giảm và vùng bị tổn thương sẽ sưng nhẹ. Khi này, dây chằng bị tổn thương buộc bệnh nhân phải ngừng hoạt động; nếu tiếp tục vận động, máu sẽ tụ lại nhiều, không có lợi cho việc điều trị sau đó.
2. Rách cơ: Số cơ bị rách chiếm 25-75% bó sợi. Xuất hiện vết bầm do các sợi cơ bị đứt nhiều hơn. Bệnh nhân có thể nghe tiếng "bựt" hay "rắc" tại chỗ bị thương, có cảm giác đau dữ dội và phải ngưng hoạt động hoàn toàn. Khớp có thể bị mất độ vững.
3. Đứt cơ: Số cơ bị rách chiếm trên 75% bó sợi, có khi đứt hoàn toàn làm máu bầm tụ nhiều ngày sau đó, khớp sưng nhiều và trở nên lỏng lẻo. Bệnh nhân có thể bị trật khớp và hoàn toàn không hoạt động được.
Với chấn thương phần mềm, việc xử lý ban đầu đúng cách là rất cần thiết, giúp chỗ tổn thương ổn định và mau lành. Việc sơ cứu gồm 4 bước:
- Nghỉ ngơi: ngay sau khi bị chấn thương, cần ngưng tập luyện hoặc thi đấu. Có thể giữ vùng bị thương bằng nẹp cố định trong 1-3 ngày đầu.
- Chườm lạnh: Mục đích để phòng ngừa biến chứng, không gây tụ máu hay chảy máu. Dùng túi đá ướp chườm lạnh ngay tại chỗ 10-15 phút, mỗi lần cách nhau khoảng 1 giờ, lặp lại nhiều lần trong ngày. Có thể chườm lạnh trong 1-3 ngày đầu sau khi bị thương. Không nên chườm một lần quá lâu hoặc chườm lạnh trực tiếp vì da sẽ bị bỏng.
- Băng ép: Mục đích là làm giảm chảy máu, sưng bầm và đau nhức. Dùng băng thun quấn ép dưới vùng tổn thương, những vòng đầu phải quấn chặt, sau đó lỏng dần.
- Kê cao vùng bị thương: Giúp máu trở về tim tốt hơn; làm giảm sưng, đau và viêm. Đặc biệt có thể kê cao chân 10-15 cm trong 1-3 ngày đầu. Tuy nhiên, không nên kê cao quá so với tim.
Khi bị chấn thương, bệnh nhân có thể dùng thuốc giảm đau, nhưng tuyệt đối không nên xoa các loại dầu nóng. Nhiều người làm vậy vì lầm tưởng loại thuốc mà các vận động viên được xịt khi bị chấn thương là dầu nóng. Thực ra, đó là một loại khí lạnh dễ bốc hơi, có công dụng giống như chườm lạnh.
Khi bị chấn thương, bệnh nhân không được chườm nóng hoặc xoa bóp. Việc chườm nóng khiến máu chảy nhiều hơn, còn xoa bóp lại khiến các dây chằng bị xơ chai, mất đi độ đàn hồi. Chúng sẽ trở nên yếu hơn và dễ chấn thương trở lại khi có những cử động hơi mạnh.
Thông thường, nếu tổn thương nhẹ, bệnh nhân sẽ hoàn toàn phục hồi sau khi điều trị được 2-3 ngày. Lúc này, họ có thể tập luyện nhẹ nhàng (khoảng 50% sức), và tăng từ từ để cơ thể dễ thích nghi. Nếu là chấn thương nặng hoặc đã qua sơ cứu mà hoạt động vẫn còn khó khăn, bệnh nhân nên đến khám ở các bệnh việc chuyên khoa để được điều trị càng sớm càng tốt.
Thanh Niên
========================================================================
Về Đầu Trang Go down
http://karatevn.tk
HuyendaiKarate
Huấn luyện viên
Huấn luyện viên
HuyendaiKarate

Số bài gửi : 714
Tài sản : 510618
Số lần được thanks : 53
Join date : 14/05/2010
Đến từ-Lớp Đến từ-Lớp : CLB Karatedo Uy Son

XỬ LÝ NHỮNG CHẤN THƯƠNG THÔNG THƯỜNG TRONG THỂ THAO _
Bài gửiTiêu đề: Re: XỬ LÝ NHỮNG CHẤN THƯƠNG THÔNG THƯỜNG TRONG THỂ THAO   XỬ LÝ NHỮNG CHẤN THƯƠNG THÔNG THƯỜNG TRONG THỂ THAO I_icon_minitimeFri Jun 04, 2010 7:18 am

Cấp cứu chấn thương ngực

Chấn thương ngực bao gồm chấn thương ngực kín và vết thương ngực hở, đây là một cấp cứu phổ biến trong chiến tranh cũng như thời bình. Ngoài những thủ thuật có tính chuyên khao (bài riêng), những thủ thuật khác rất đơn giản nhưng đòi hỏi sự chính xác và theo dõi cẩn thận. Nếu làm đúng các quy trình kỹ thuật sẽ góp phần cứu sống đa số bệnh nhân.
Phạm vi bài viết chỉ đề cập đến những tổn thương thành ngực gây bệnh cảnh tràn máu, tràn khí màng phổi và cách xử trí các tổn thương này.
1. Chẩn đoán và cách xử trí các tổn thương thành ngực:
1.1. Gãy xương sườn:
Là thường tổn thương gặp trong chấn thương ngực, có hai cơ chế gãy:
- Gãy trực tiếp: gãy từ ngoài vào, chấn thương ở đâu thì xương sườn gãy ở đó, do vậy hay có tổn thương phổi.
- Gãy giãn tiếp: gãy từ trong ra ngoài do lồng ngực bị ép theo chiều trước sau. Các tạng nằm giữa trung thất rất dễ bị tổn thương (tim, mạch máu lớn).
Gãy xương sườn đơn thuần không hình thành khớp giả vì có sự liên kết các cơ liên sườn, Mặc dù lồng ngực di động theo nhịp thở. 
Chẩn đoán
- Chẩn đoán dễ trong trường hợp bệnh nhân gầy, thành ngực mỏng, gẫy cung trước bên. Ngược lại chẩn đoán sẽ khó ở người béo, thành ngực dầy và gãy ở cung sau. Trường hợp này phải kết hợp giữa lâm sàng và Xquang ngực.
- Phát hiện gãy xương sườn: dùng ngón tay ấn dọc bờ trên xương sườn phát hiện điểm đau chói, hoặc tiếng lạo xạo xương khí áp cả bàn tay lên vùng chấn thương (ngón 2 và 3 ấn nhẹ vào 2 bên điểm đau chói).
- Tràn khí dưới da chứng tỏ có thủng màng phổi và rách phổi.
- Chụp ngực thẳng và nghiêng xác định gẫy xương và hình ảnh tràn máu, tràn khí màng phổi.
* Cần lưu ý khi:
- Các thăm khám phải nhẹ nhàng, tránh làm tổn thương tăng lên (đầu xương gãy, ấn thủng vào khoang màng phổi, rách phổi…)
- Gãy xương sườn ở người già: người già xương giòn nên rất dễ gãy, bệnh nhân đau, không dám ho, đờm rãi tiết ra không khạc ra ngoài được gây ứ đọng làm xẹp phổi.
- Gãy xương sườn ở trẻ em: khi xương sườn bị gãy, có nghĩa là tác nhan chấn thương rất mạnh do đó tổn thương kèm theo nặng vì xương trẻ em còn mềm.
- Gãy xương sườn 1-2: Chấn thương rất mạnh mới làm gãy và hay có tổn thương mạch thần kinh kèm theo vì xương sườn 1-2 được che phủ bởi xương đòn và xương bả vai.
- Gãy xương sườn 8-9: thương tổn kèm theo có thể gặp là vỡ gan hoặc vỡ lách.
* Cách xử trí:
- Chống đau: hai phương pháp áp dụng là:
+ Băng dính to bản cố định xương sườn: băng từ xương ức đến cột sống bên tổn thương, bản nọ chồng lên bản kia 1/3 đường kính. Băng trên và dưới xương gãy một xương. Phương pháp này đơn giản, dễ làm, phải lưu ý ở người già hoặc ở bệnh nhân có tổn thương phổi cũ đôi khi gây hạn chế hô hấp.
+ Phong bế thần kinh liên sườn: phong bế bằng xyclocain 1% ở ổ gãy phía cột sống. Vì nguy cơ làm tổn thương, gây biến chứng khi tiêm phải động mạch liên sườn, hiện nay người ta không còn dùng.
- Đề phòng vỡ ứ đọng đờm dãi:
+ Tập thở: hướng dẫn bệnh nhân tập thở, thổi bóng giúp cho thông khí tốt, phổi nở sát thành ngực (hít vào và thở ra tối đa).
+ Tập ho và vỗ ho: vỗ ho cho bệnh nhân và kích thích tạo phản xạ ho (hõm trên đòn) để loại bỏ xuất hiện đờm dãi.
+ Khí dung: có tác dụng làm giãn phế quản, loãng đờm dãi, tăng khả năng ho và loại bỏ đờm dãi (kháng sinh + Salbutamol hoặc Depersolon).
1.2. Mảng sườn di động:
* Mảng sườn là một vùng của thành ngực không còn liên tục với lồng ngực nữa, do gãy hai nơi trên cùng một xương bên tổn thương và ít nhất có 3 xương sườn bị gãy trở lên. Gãy hai nơi trên cùng một xương sườn làm mất tính vững chắc của khung xương, gây nên nhiều rối loạn về hô hấp.
- Mảng sườn bên hay gặp nhất và những thay đổi trên lâm sàng cũng dễ thấy nhất. Đường gãy xương sườn giới hạn từ đường nách giữa và trước.
- Ngoài ra có thể gặp mảng sườn ức (gãy xương ức kèm theo gãy xương sườn dọc hai bên), mảng sườn sau bên.
* Chẩn đoán:
- Khi bệnh nhân hít vào, vùng mảng sườn bị lõm xuống (hút vào) vì lúc này áp lực trong khoang màng phổi âm hơi, khi bệnh nhân thở ra, vùng này lại phồng lên ngược chiều với lồng ngực.
- Hậu quả: + Ngăn cản sự thông khí vào phổi: Phổi xẹp do mảng sườn (đè vào) trong thì thở vào. Cùng lúc một lượng khí chưa trao đổi ôxy từ bên phổi bị chấn thương sang bên phổi lành gây thiếu ôxy.
+ Thiếu oxy bệnh nhân sẽ thở nhanh lên, tăng hô hấp càng làm hô hấp đảo ngược, cản trở hô hấp càng nặng lên.
+ Thiếu ôxy tăng dần
+ Trung thất lắc lư gây rối loạn tuần hoàn (cản trở máu về tim do xoắn tĩnh mạch chủ dưới), mức độ nặng dần có thể ngừng tim.
* Điều trị:
- Sơ cứu: khi chẩn đoán có mảng sườn di động, phải sơ cứu rồi mới được chuyển bệnh nhân về trung tâm điều trị. Mục đích sơ cứu nhằm không cho mảng sườn di động này di động.
- Các bước tiến hành:
+ Hút đờm rãi, đặt nội khí quản, mở khí quản nếu cần.
+ Cố định mảng sườn tạm thời: dùng một cuộn băng hoặc bao "cát vừa đủ" đặt vào vùng mảng sườn, rồi lấy băng khác cuốn vòng quanh ngực làm cho mảng sườn luôn ở tư thế thụt vào mà không phồng lên được sẽ tránh được những rối loạn về tuần hoàn và hô hấp mặc dù gây hạn chế hô hấp một phần.
- Điều trị thực thụ:
+ Cố định ngoài: kéo liên tục trong mảng sườn ức, cố định xương gãy bằng nẹp Judet (Argaf de Judet).
+ Cố định trong (cố định sinh lý): đặt nội khí quản thở máy có giãn cơ, hoặc luồn đinh Rush qua mảng sườn cố định lên trên và dưới ổ gãy một xương.
1.3. Vết thương ngực hở:
* Vết thương làm thủng màng phổi là thành, khoang màng phổi thông với không khí bên ngoài gọi là vết thương ngực hở (bất kỳ vết thủng ở đâu). Ngoài vết thương thành ngực cần phải chú ý những vết thương từ bụng lên hay từ cổ xuống.
* Chẩn đoán:
Có hai loại vết thương ngực hở
- Vết thương được bít kín: do bản thân vết thương tự bịt (máu cục, dị vật…) hoặc vết thương được bịt kín do băng.
+ Các rối loạn hô hấp bao gồm: phổi xẹp do tràn khí, tràn máu màng phổi, bít tắc đường hô hấp do đờm dãi.
- Vết thương ngực còn hở: phì phò = bọt hồng qua vết thương khi thở.
+ Rối loạn hô hấp giống như trong mảng sườn di động.
+ Khó thở là bệnh cảnh nổi bật trên lâm sàng.
* Điều trị:
- Bịt kín vết thương và xử trí tuỳ theo tổn thương.
2. Tràn máu, tràn khí màng phổi
2.1. Tràn máu màng phổi
Tràn máu màng phổi là một biến chứng rất hay gặp trong chấn thương và vết thương ngực. Nguồn chảy máu có thể từ thành ngực, phổi, mạch máu trung thất.
* Chẩn đoán:
- Lưu ý khi chụp ngực bệnh nhân phải nằm vì đau, hình ảnh mờ đầu bên phổi chấn thương so với bên lành.
* Cách xử trí:
- Dẫn lưu màng phổi và hút liên tục áp lực âm 20cmH2O
- Chỉ chọc hút khi không có điều kiện phương tiện và người theo dõi.
- Nếu số lượng máu ra nhiều cần chuyển về trung tâm phẫu thuật.
2.2. Tràn khí màng phổi:
* Do vết thương ngực hở hoặc do tổn thương nhu mổ phổi. Trong chẩn đoán cần phân biệt hình ảnh Xquang giữa tràn khí màng phổi và xẹp phổi.
- Tràn khí màng phổi: dấu hiệu Xquang là dấu hiệu đẩy.
+ Trung thất bị đẩy sang bên đối diện
+ Cơ hoành bị đẩy xuống
+ Thành ngực nâng cao
- Xẹp phổi: dấu hiệu co
+ Trung thất kéo sang bên tổn thương
+ Cơ hoành kéo lên
+ Thành ngực kéo xuống
* Cần lưu ý tới tràn khí màng phổi dưới áp lực: không kí tràn vào khoang màng phổi ngày một tăng lên sau mỗi lần thở, áp lực khoang màng phổi ngày một tăng, đẩy lệch trung thất sang bên đối diện, ép bên phổi lành, làm bệnh nhân khó thở dữ dội dẫn đến ngừng thở và tử vong nếu không được sơ cứu kịp thời.
* Xử trí:
- Dẫn lưu màng phổi liên tục: Dẫn lưu KLS II nếu tràn khí đơn thuần, tràn khí và tràn máu  dẫn lưu như tràn máu.
- Tràn khí màng phổi dưới áp lực: chọc kim giải phóng tạm thời trong khi chuẩn bị dẫn lưu. Khi vận chuyển bệnh nhân cần đặt van 1 chiều (van Heimlick), hoặc kim tiêm to có buộc đầu găng cao su đã cắt một đường.
3. Vết thương ngực bụng:
* Vết thương ngực - bụng thường dùng để chỉ những vết thương xuyên từ ngực xuống bụng qua cơ hoành hoặc theo chiều ngược lại. Vì cơ hoành bị thủng nên hai ổ ngực và bụng thông với nhau, áp lực âm trong khoang màng phổi hút lên ngực, máu, dịch tiêu hoá hay tạng trong bụng.
* Chẩn đoán:
- Định hướng đâm xuyên để tránh bỏ sót tổn thương ở ổ bên kia.
- Vết thương ngực phim chụp thấy có liềm hơi dưới hoành.
- Vết thương ngực có dấu hiệu chảy máu hoặc viêm phúc mạc ổ bụng.
- Vết thương bụng nhưng Xquang ngực có tràn máu, tràn khí
- Vết thương bụng có thoái vị cơ hoành.
* Xử trí
- Dẫn lưu màng phổi rồi mới quyết định xử trí ở đâu trước.
+ Không có chỉ định mổ ngực - mở bụng trước.
- Khâu kín cơ hoành: rửa sạch khoang màng phổi, phồng phổi trước khi khâu kín.
- Dẫn lưu ngực và bụng đều kín - hút liên tục- nếu dẫn lưu bụng hở, khí, dịch sẽ hút lên ngực.
4. Chỉ định mở ngực cấp cứu
Mặc dù mở ngực cấp cứu ít được thực hiện trong chấn thương ngực, tuy nhiên trong các trường hợp sau đây cần phải mở ngực:
- Vết thương rộng - lộ tạng trong ngực
- Có dấu hiệu chèn ép tim
- Sốc mất máu do tổn thương tạng trong hồi sức không kết quả.
- Dẫn lưu máu màng phổi ra nhiều, nhanh. Trong 2 giờ đầu sau dẫn lưu, mỗi giờ dẫn lưu ra trên 200ml máu.
- Tràn khí màng phổi tái phát nhanh hoặc tràn khí màng phổi ra liên tục theo nhịp thở.
- Thoát vị các tạng từ bụng lên ngực
- Vết thương thực quản.Lê Ngọc Thành
========================================================================
Về Đầu Trang Go down
http://karatevn.tk
HuyendaiKarate
Huấn luyện viên
Huấn luyện viên
HuyendaiKarate

Số bài gửi : 714
Tài sản : 510618
Số lần được thanks : 53
Join date : 14/05/2010
Đến từ-Lớp Đến từ-Lớp : CLB Karatedo Uy Son

XỬ LÝ NHỮNG CHẤN THƯƠNG THÔNG THƯỜNG TRONG THỂ THAO _
Bài gửiTiêu đề: Re: XỬ LÝ NHỮNG CHẤN THƯƠNG THÔNG THƯỜNG TRONG THỂ THAO   XỬ LÝ NHỮNG CHẤN THƯƠNG THÔNG THƯỜNG TRONG THỂ THAO I_icon_minitimeFri Jun 04, 2010 7:22 am

Lỏng khớp gối - chấn thương thường gặp trong thể thao


XỬ LÝ NHỮNG CHẤN THƯƠNG THÔNG THƯỜNG TRONG THỂ THAO Karate
Một số người bị chấn thương nhưng xương không gãy, gối sưng một chút rồi xẹp, không đau, hình X-quang bình thường. Tuy nhiên, khi đến bác sĩ, họ lại được chỉ định mổ tái tạo dây chằng để chữa lỏng gối - yếu tố gây thoái hóa khớp không thể phục hồi.

Lỏng gối nói dễ hiểu là khớp gối bị lỏng. Tùy theo cuộc sống và sinh hoạt của từng cá nhân, người bệnh sẽ có cảm giác khó chịu khác nhau. Dưới đây là một số biểu hiện thường gặp nhất trên chân bị lỏng gối:

- Có cảm giác chân yếu khi đi lại.

- Khó khăn khi phải đứng trụ bằng chân bị lỏng gối.

- Lực đá bị suy giảm rõ rệt, nhất là với các vận động viên bóng đá: sút không còn mạnh như xưa, đường banh đi không còn chính xác, bị chệch hướng.

- Khi chạy nhanh có cảm giác ríu chân nên dễ vấp ngã.

- Khi đi nhanh trên đường không bằng phẳng dễ có cảm giác trẹo gối, mất cảm giác bám đường, giảm khả năng giữ vững chân để tránh ngã khi vấp phải những vật cản nhỏ trên đường như viên đá, hố nhỏ... Vì thế người bị lỏng gối dễ bị ngã trẹo gối khi đi nhanh.

- Cảm giác bất thường khi lên xuống dốc hay cầu thang. Sự nhanh nhẹn bình thường không còn, thay vào đó là việc khó điều khiển chân mình như ý muốn. Biểu hiện rõ ràng nhất là khi người bệnh không thể bước hoặc xuống mỗi hai bậc thang như trước đây.

- Sau chấn thương một thời gian, người bệnh phát hiện đùi bị teo cơ. Dấu hiệu này thường gặp ở những người ít hoạt động thể lực như phái nữ, nhân viên văn phòng, học sinh...

Khớp gối chắc chắn là nhờ cấu trúc xương ôm khít vào nhau, được bao bọc bởi bao khớp, cơ bắp ở phía trước, phía sau và dây chằng hai bên. Đặc biệt, ở giữa khớp có hai dây chằng nối hai đầu xương khiến chúng giữ chặt với nhau ở ngay trung tâm khớp. Hai dây chằng này gọi là dây chằng chéo trước và dây chằng chéo sau. Trong đó, dây chằng chéo trước có vai trò quan trọng nhất giúp cho khớp gối chắc chắn.

Khi dây chằng chéo trước bị tổn thương, khớp gối sẽ lỏng. Tuy nhiên, nhờ có sức cơ đùi bù đắp trong thời gian đầu sau chấn thương nên người bệnh chưa cảm nhận được. Cho đến khi cơ đùi bị teo nghĩa là cơ đùi suy yếu dần, không còn đủ sức gồng gánh cho dây chằng chéo trước, các dấu hiệu của lỏng gối mới xuất hiện. Trước đây, người ta thường chờ đến khi người bệnh có dấu hiệu lỏng gối mới mổ tái tạo dây chằng. Kết quả là thời gian phục hồi vận động khớp gối kéo dài khoảng trên 6 tháng. Khuynh hướng hiện nay là mổ sớm, trước khi cơ đùi bị teo. Điều này sẽ giúp phục hồi chức năng khớp gối sau phẫu thuật tốt hơn.

Cách đây vài chục năm, khi chưa hiểu nhiều về chức năng của các dây chằng trong khớp gối, nhiều bác sĩ chỉnh hình đã chủ trương điều trị nội khoa cho bệnh nhân đứt dây chằng chéo trước. Hiện nay, sau họ nhận thấy chấn thương làm đứt dây này chắc chắn sẽ dẫn đến lỏng gối. Với các vận động viên chuyên nghiệp, sự lỏng gối làm giảm phong độ thi đấu của họ rất nhiều. Họ khó thực hiện các động tác chạy, nhảy, đứng trụ, sút bóng, giữ thăng bằng khi xoay người, ngừng đột ngột hay chạm đất. Phẫu thuật sẽ giúp phục hồi lại chức năng khớp gối bị lỏng và giúp nhiều vận động viên trở lại đỉnh cao trước đây. Ví dụ điển hình là cầu thủ bóng đá Ronaldo (Brazin) từng bị chấn thương khớp gối và được mổ tái tạo dây chằng chéo trước 2 lần ở Pháp. Lần thứ nhất trước giải vô địch thế giới 1998 ở Pháp, anh ra sân sau mổ chỉ có 3 tháng dù bác sĩ đã khuyến cáo là không nên. Trận chung kết với Pháp, Brazin thất bại và Ronaldo phải nhập viện để mổ lại vì mảnh ghép bị đứt do vận động quá sớm. Rút kinh nghiệm, trong lần sau, Ronaldo đã dành đến hai năm để phục hồi và luyện tập theo đúng sự hướng dẫn của các bác sĩ chỉnh hình, và anh đã thi đấu thành công tại Mondial 2002 ở Hàn Quốc.
Sau phẫu thuật, người bệnh đi với 2 nạng chạm đất, có cảm giác đau trong 7-10 ngày. Sau đó, có thể tập bỏ nạng từ từ. Thường là sau 2-3 tuần, người bệnh có thể đi lại không cần nạng. Các bài tập vật lý trị liệu được bắt đầu ngay ngày thứ hai sau mổ, giúp ngăn ngừa các biến chứng như teo cơ đùi, cứng khớp; giúp sự tuần hoàn lưu thông tốt nên sẹo mổ mau lành hơn. Bệnh nhân sẽ tập luyện cho đến khi có cảm giác bình thường với các động tác đi lại bình thường. Thời gian trung bình của giai đoạn này là 3 tháng.
Kế đến là tập luyện nhẹ lại các bài tập thể lực. Cường độ và thời gian vận động sẽ tăng dần cho đến khi phục hồi hoàn toàn các động tác chạy nhảy. Giai đoạn này trung bình cũng mất khoảng 3 tháng. Bước thứ 3 là tăng cường các bài tập thể lực nặng hơn để phục hồi hoàn toàn phong độ cũ. Lúc này thời gian nhanh hay chậm thường phụ thuộc vào ý chí của người bệnh (thường là 3-6 tháng). Như vậy, vận động viên sau phẫu thuật tái tạo dây chằng chéo trước cần ít nhất 9-12 tháng mới được phép thi đấu trở lại.
(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)
========================================================================
Về Đầu Trang Go down
http://karatevn.tk
Sponsored content




XỬ LÝ NHỮNG CHẤN THƯƠNG THÔNG THƯỜNG TRONG THỂ THAO _
Bài gửiTiêu đề: Re: XỬ LÝ NHỮNG CHẤN THƯƠNG THÔNG THƯỜNG TRONG THỂ THAO   XỬ LÝ NHỮNG CHẤN THƯƠNG THÔNG THƯỜNG TRONG THỂ THAO I_icon_minitime

========================================================================
Về Đầu Trang Go down
 

XỬ LÝ NHỮNG CHẤN THƯƠNG THÔNG THƯỜNG TRONG THỂ THAO

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 

Upload hình
Trang 1 trong tổng số 1 trang
* Viết tiếng Việt có dấu, là tôn trọng người đọc.
* Chia sẻ bài sưu tầm có ghi rõ nguồn, là tôn trọng người viết.
* Thực hiện những điều trên, là tôn trọng chính mình.
-Nếu chèn smilies có vấn đề thì bấm A/a trên phải khung viết bài

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
 :: Tài liệu :: Tài liệu nghiên cứu :: Chăm sóc sức khỏe-
Free forum | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Thảo luận mới nhất